Việt Nam có quy định quyền an tử chưa? Người nhà hay bác sĩ hỗ trợ an tử cho bệnh nhân có được không?
Việt Nam có quy định quyền an tử chưa?
An tử hay còn gọi là quyền được chết, nhằm để chỉ trường hợp một người mong muốn được chấm dứt cuộc sống bằng những cách thức ít đau đớn nhất có thể, thường là những bệnh nhân không còn khả năng cứu chữa.
Về quyền an tử từ trước đến nay luôn nhận được sự quan tâm của các quốc gia và các tổ chức nhân quyền. Hiện nay một số nước đã luật hóa quyền an tử như là Hà Lan, Bỉ, Albania, và Luxembourg. Hay Thụy Sỹ, Đức, Mỹ (ở 4 bang Oregon, Washington, Montana, và Vermont), và Canada (tỉnh Quebec) đã hợp thức hóa hình thức trợ tử.
Tuy nhiên, tại Việt Nam vẫn đề này vẫn còn nhiều tranh cãi và chưa được luật hóa. Cụ thể Hiến pháp hiện nay không có quy định đề cập đến quyền được chết, mà chỉ nêu rõ về quyền được sống tại Điều 19 Hiến pháp 2013 như sau:
Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật.
Theo đó, tính mạng con người được pháp luật bảo hộ và không ai có quyền tước đoạt tính mạng người khác, trừ trường hợp tội phạm chịu hình phạt tử hình, phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết,... theo quy định của Bộ luật Hình sự 2015.
Như vậy, quyền an tử chưa được công nhận tại Việt Nam, mọi hành vi an tử đều bị coi là hành vi xâm phạm tính mạng người khác trái pháp luật và có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Việt Nam có quy định quyền an tử chưa? Người nhà hay bác sĩ hỗ trợ an tử cho bệnh nhân có được không? (Hình từ Internet)
Người nhà hay bác sĩ an tử cho bệnh nhân có được không?
Như đã trình bày bên trên, do nước ta hiện nay chưa công nhận quyền được chết của bất kỳ ai. Do đó, bệnh nhân dù đang trong giai đoạn không thể cứu chữa, hay bị bệnh tật dày vò gây đau khổ thì cũng không có bất kỳ ai được quyền hỗ trợ chết cho bệnh nhân.
Đối với bác sĩ - người hành nghề khám chữa bệnh có trách nhiệm khám chữa bệnh, cứu người mà không có quyền tước đoạt tính mạng bệnh nhân, cụ thể Điều 36 Luật Khám bệnh, chữa bệnh 2009 có quy định:
Nghĩa vụ đối với người bệnh
1. Kịp thời sơ cứu, cấp cứu, khám bệnh, chữa bệnh cho người bệnh, trừ trường hợp quy định tại Điều 32 của Luật này.
2. Tôn trọng các quyền của người bệnh, có thái độ ân cần, hòa nhã với người bệnh.
3. Tư vấn, cung cấp thông tin theo quy định tại khoản 1 Điều 7 và khoản 1 Điều 11 của Luật này.
4. Đối xử bình đẳng với người bệnh, không để lợi ích cá nhân hay sự phân biệt đối xử ảnh hưởng đến quyết định chuyên môn của mình.
5. Chỉ được yêu cầu người bệnh thanh toán các chi phí khám bệnh, chữa bệnh đã niêm yết công khai theo quy định của pháp luật.
Còn đối với trường hợp người nhà bệnh nhân thực hiện hành vi an tử theo mong muốn của bệnh nhân thì đây vẫn bị xem là hành vi xâm phạm tính mạng người khác trái pháp luật.
Như vậy, dù là bác sĩ hay người nhà bệnh nhân thực hiện hành vi trợ tử, an tử bệnh nhân đều có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội Giết người, căn cứ Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về hình phạt của Tội Giết người như sau:
Tội giết người
1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Giết 02 người trở lên;
b) Giết người dưới 16 tuổi;
c) Giết phụ nữ mà biết là có thai;
d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;
đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;
e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác;
h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;
i) Thực hiện tội phạm một cách man rợ;
k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp;
l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người;
m) Thuê giết người hoặc giết người thuê;
n) Có tính chất côn đồ;
o) Có tổ chức;
p) Tái phạm nguy hiểm;
q) Vì động cơ đê hèn.
2. Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.
3. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm.
Xúi giục hoặc giúp bệnh nhân sớm kết thúc sự sống bị phạt bao nhiêu năm?
Hành vi xúi giục hoặc giúp người khác tự kết thúc sự sống có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với Tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát.
Cụ thể, hình phạt đối với tội danh này được quy định tại Điều 131 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
Tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát
1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác tự tước đoạt tính mạng của họ;
b) Tạo điều kiện vật chất hoặc tinh thần cho người khác tự tước đoạt tính mạng của họ.
2. Phạm tội làm 02 người trở lên tự sát, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.