Những ngày phép năm chưa nghỉ có bị mất khi hợp đồng lao động hết hạn hay không?
Hết hạn hợp đồng lao động có phải tái ký lại hay không?
Tại khoản 1 Điều 34 Bộ luật Lao động 2019 có quy định về vấn đề tái ký hợp đồng lao động như sau:
Các trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động
1. Hết hạn hợp đồng lao động, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 177 của Bộ luật này.
2. Đã hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động.
3. Hai bên thỏa thuận chấm dứt hợp đồng lao động.
...
Theo đó, khi hợp đồng lao động hết hạn mà không thuộc trường hợp người lao động là thành viên ban lãnh đạo của tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở đang trong nhiệm kỳ mà hết hạn hợp đồng lao động thì người sử dụng lao động có quyền chấm dứt hợp đồng lao động.
Việc có tái ký hợp đồng lao động hay không hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của hai bên nên nếu không tái ký thì cũng không vi phạm quy định của luật.
Những ngày phép năm chưa nghỉ có bị mất khi hợp đồng lao động hết hạn hay không? (Hình từ Internet)
Những ngày phép năm chưa nghỉ hết có bị mất khi hết hạn hợp đồng hay không?
Tại Điều 113 Bộ luật Lao động 2019 có quy định về những ngày phép năm chưa nghỉ như sau:
Nghỉ hằng năm
1. Người lao động làm việc đủ 12 tháng cho một người sử dụng lao động thì được nghỉ hằng năm, hưởng nguyên lương theo hợp đồng lao động như sau:
a) 12 ngày làm việc đối với người làm công việc trong điều kiện bình thường;
b) 14 ngày làm việc đối với người lao động chưa thành niên, lao động là người khuyết tật, người làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm;
c) 16 ngày làm việc đối với người làm nghề, công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm.
2. Người lao động làm việc chưa đủ 12 tháng cho một người sử dụng lao động thì số ngày nghỉ hằng năm theo tỷ lệ tương ứng với số tháng làm việc.
3. Trường hợp do thôi việc, bị mất việc làm mà chưa nghỉ hằng năm hoặc chưa nghỉ hết số ngày nghỉ hằng năm thì được người sử dụng lao động thanh toán tiền lương cho những ngày chưa nghỉ.
4. Người sử dụng lao động có trách nhiệm quy định lịch nghỉ hằng năm sau khi tham khảo ý kiến của người lao động và phải thông báo trước cho người lao động biết. Người lao động có thể thỏa thuận với người sử dụng lao động để nghỉ hằng năm thành nhiều lần hoặc nghỉ gộp tối đa 03 năm một lần.
....
Theo đó, khi hết hạn hợp đồng mà 2 bên không tái ký dẫn đến trường hợp người lao động thôi việc thì người này sẽ được thanh toán tiền cho những ngày phép năm chưa nghỉ hết.
Trường hợp hết hạn hợp đồng mà 2 bên tái ký, tiếp tục làm việc cùng nhau thì lúc này số ngày nghỉ phép năm sẽ dựa vào số tháng người lao động làm việc cho một người sử dụng lao động.
Lúc này, những ngày phép năm chưa nghỉ hết của hợp đồng cũ có thể không bị mất mà được cộng dồn vào với số ngày phép năm của hợp đồng mới.
Tuy nhiên, pháp luật hiện hành cũng cho phép người lao động được thỏa thuận với doanh nghiệp để gộp ngày nghỉ phép còn dư sang các năm tiếp theo.
Xác định mức lương nào để thanh toán tiền những ngày phép năm chưa nghỉ hết cho người lao động?
Tại Điều 67 Nghị định 145/2020/NĐ-CP có quy định như sau:
Tiền tàu xe, tiền lương trong thời gian đi đường, tiền lương ngày nghỉ hằng năm và các ngày nghỉ có hưởng lương khác
1. Tiền tàu xe, tiền lương những ngày đi đường ngoài ngày nghỉ hằng năm theo khoản 6 Điều 113 của Bộ luật Lao động do hai bên thỏa thuận.
2. Tiền lương làm căn cứ trả cho người lao động những ngày nghỉ lễ, tết, nghỉ hằng năm, nghỉ việc riêng có hưởng lương theo Điều 112, khoản 1 và khoản 2 Điều 113, Điều 114, khoản 1 Điều 115 của Bộ luật Lao động là tiền lương theo hợp đồng lao động tại thời điểm người lao động nghỉ lễ, tết, nghỉ hằng năm, nghỉ việc riêng có hưởng lương.
3. Tiền lương làm căn cứ trả cho người lao động những ngày chưa nghỉ hằng năm hoặc chưa nghỉ hết số ngày nghỉ hằng năm theo khoản 3 Điều 113 của Bộ luật Lao động là tiền lương theo hợp đồng lao động của tháng trước liền kề tháng người lao động thôi việc, bị mất việc làm.
Theo đó, tiền lương làm căn cứ trả cho người lao động trong những ngày phép năm chưa nghỉ là tiền lương theo hợp đồng lao động của tháng trước liền kề tháng người lao động thôi việc, mất việc làm.
Hiện nay Bộ luật Lao động 2019 và các văn bản liên quan không có định nghĩa về lương cơ bản. Tuy nhiên có thể hiểu rằng, lương cơ bản sẽ phụ thuộc vào thỏa thuận của người lao động với người sử dụng lao động, tính chất và nội dung của công việc, do lương cơ bản không bao gồm các khoản phụ cấp nên đây không phải là số tiền thực tế mà người lao động nhận được.
Lương cơ bản chính là tiền lương ghi trong hợp đồng lao động dựa trên sự thỏa thuận đồng ý giữa người lao động và người sử dụng lao động.
Như vậy, tiền lương làm căn cứ cho việc thanh toán tiền phép năm cho người lao động khi chưa sử dụng hết là tiền lương cơ bản của tháng trước liền kề tháng người lao động thôi việc, bị mất việc làm.