tiền vào Quỹ BHXH có quyền yêu cầu ngân hàng nơi người SDLĐ mở tài khoản cung cấp các thông tin về tài khoản, số dư trên tài khoản của người SDLĐ.
Người sử dụng lao động có trách nhiệm thông báo cho người có thẩm quyền ra quyết định về ngân hàng nơi mở tài khoản, số tài khoản của mình tại ngân hàng khi có yêu cầu.
Người có thẩm quyền ra
Tôi bán 1 mảnh đất, có làm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dung đất với bên mua. Hợp đồng công chứng ngày 01/5/2015, chưa đăng ký sang tên. Hiện tôi không muốn bán đất nữa thì phải làm thế nào?
doanh nghiệp chúng tôi vừa qua có đợt thanh tra của Sở lao động Thương binh và xã hội kiểm tra, trong đó yêu cầu chúng tôi giải trình về việc báo cáo tình hình sử dụng lao động. Tuy nhiên, từ khi thành lập đến nay (2013) công ty chúng tôi chưa hề báo cáo gì về tình hình sử dụng lao động. Vì vậy,việc báo cáo tình hình sử dụng lao động quy định ở
+ Căn cứ bồi thường thiệt hại of người lao động been quy định tại Khoản 1 Điều 130 Bộ luật lao động năm 2012 quy định: “Người lao động làm hư hỏng dụng cụ, thiết bị or may hành vi khác cause thiệt hại tài sản của người sử dụng lao động thì phải bồi thường theo quy định pháp luật of “.
+ Người sử dụng lao động has trách nhiệm chứng Minh the
Đại diện cho tập thể người lao động của công ty TNHH Max Planning ViNa Do tình hình chung về vấn đề nợ BHXH,BHYT,BHTN của các doanh nghiệp . Công ty nơi Chúng tôi làm việc do nợ BHXH,BHYT,BHTN 2 tháng 11,12/2014.Vừa qua do hết hạn thẻ BHYT của năm 2014 và công ty Tôi có gia hạn thẻ 2015 và đã có thẻ sử dụng của 2015.Nhưng do nợ nên Công ty
Những trường hợp không được cấp Chứng chỉ hành nghề lưu trữ được quy định như sau:
a) Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự;
b) Người đang chấp hành hình phạt tù hoặc đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh, cơ sở giáo dục;
c) Người đã bị kết án về một trong các tội phạm liên quan đến an ninh quốc
Được biết, Bộ luật Hình sự năm 1999 (BLHS) quy định về tội hành nghề mê tín dị đoan. Đề nghị luật sư tư vấn, trường hợp nào bị coi là phạm tội hành nghề mê tín dị đoan?
, người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 116. Do bị truy cứu cùng chung một khung hình phạt cho cả hai trường hợp phạm tội mà mức độ nguy hiểm khác nhau, nên khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tôi, các tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách
ghen tuông, đánh đập nạn nhân gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe có tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%, Tất nhiên trong trường hợp này người gây thương tích cho nạn nhân phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 104, còn người có hành vi dâm ô bị coi là gây hậu quả nghiêm trọng.
Đối với nhiều trẻ em (điểm b khoản 2 Điều 116)
Phạm tội dâm ô đối với nhiều trẻ em là trường hợp một người có hành vi dâm ô đối với từ hai trẻ em trở lên. Nếu có hai trẻ em bị dâm ô, nhưng có một trẻ em bị dâm ô khi người phạm tội chưa đủ 18 tuổi thì người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 116
Phạm tội dâm ô một lần hoặc nhiều lần đối với một trẻ em
1. Dâm ô đối với một người
Phạm tội dâm ô một lần đối với một trẻ em không thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 116 thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 116 có khung hình phạt từ sáu tháng đến ba năm tù.
2. Phạm tội nhiều lần
Phạm
Điều 116. Tội dâm ô với trẻ em
1. Người nào đã thành niên mà có hành vi dâm ô đối với trẻ em, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau thì bị phạt tù từ ba năm đến bảy năm:
a) Phạm tội nhiều lần;
b) Đối với nhiều trẻ em;
c) Đối với trẻ em mà người phạm tội có trách nhiệm
nại) thì đối tượng phạm tội không bị xử lý hình sự.
Tuy nhiên, dù đã được bãi nại nhưng theo quy định của pháp luật thì ông B vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi đã gây ra vì tội dâm ô với trẻ em không phải thuộc nhóm các tội phạm chỉ khởi tố theo yêu cầu của người bị hại (quy định tại Điều 105 Bộ luật Tố tụng hình sự nêu trên
Công ty Luật Vinabiz xin trả lời câu hỏi như sau:
Đối với tội dâm ô đối với trẻ em sẽ bị xử phạt theo Điều 116 Bộ luật hình sự 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009 như sau:
Điều 116. Tội dâm ô đối với trẻ em
1. Người nào đã thành niên mà có hành vi dâm ô đối với trẻ em, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc
Cho tôi hỏi, với tội danh dâm ô với trẻ em có thể hưởng án treo không? Có thể mời luật sư bào chữa không, và luật sư có được vào nơi tạm giam của bị can sau khi bị can bị bắt 1 tháng không? Mong LS tư vẫn giúp, xin cảm ơn.
Đối với tội dâm ô đối với trẻ em sẽ bị xử phạt theo Điều 116 Bộ luật hình sự 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009 như sau:
Điều 116. Tội dâm ô đối với trẻ em
1. Người nào đã thành niên mà có hành vi dâm ô đối với trẻ em, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba
1. Các dấu hiệu về chủ thể của tội phạm
Cũng như chủ thể của các tội phạm khác, chủ thể của tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình cũng phải đảm bảo các yếu tố cần và đủ như: độ tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự quy định tại các Điều 12,13 Bộ luật hình sự.
Đối với tội ngược
Tôi và chồng tôi được Tòa án cho ly hôn, tôi nuôi cháu bé 3 tuổi, anh ấy có trách nhiệm đóng góp tiền nuôi dưỡng con và được quyền thăm con. Sau khi ly hôn anh ấy không đóng góp nuôi con mặc dù vẫn đến thăm con, một lần, do tôi mất cảnh giác nên khi anh ấy đến thăm con đã bế cháu về nhà nuôi, tôi yêu cầu anh ấy trả lại con cho tôi anh ấy không trả
2006 đã quy định cụ thể thủ tục đăng ký hiến xác tại Điều 19 như sau:
Người từ đủ mười tám tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có quyền bày tỏ nguyện vọng hiến xác với cơ sở y tế.
Khi nhận được thông tin của người có nguyện vọng hiến xác, cơ sở y tế có trách nhiệm thông báo cho cơ sở tiếp nhận và bảo quản xác của người hiến theo
quy định trên thì trường hợp ông nghỉ việc, ông chưa đủ điều kiện hưởng lương hưu.
Theo Khoản 1 Điều 14 nghị định 05/2015/NĐ-CP ngày 12-1-2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội dung của BLLĐ quy định trợ cấp thôi việc như sau:
Người sử dụng lao động (NSDLĐ) có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi